CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH LỄ HỘI – Tài liệu text

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH LỄ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.87 KB, 23 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH LỄ HỘI
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LỄ HỘI:
1.1. Quan niệm về lễ hội:
Lễ hội đã tạo nên “tấm thảm muôn màu. Mọi sự ở đó đều đan quyện vào
nhau, thiêng liêng và trần tục, nghi lễ và hồn hậu, truyền thống và phóng khoáng,
của cải và khốn khổ, cô đơn và đoàn kết, trí tuệ và bản năng”(Tạp chí Người đưa
tin UNESCO tháng 12-1989).
Quả đúng như vậy, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ dân tộc nào, thời đại nào, vào bất
cứ mùa nào trong năm cũng có những ngày lễ hội. Các lễ hội đã tạo nên một môi
trường đầy huyền diệu, giúp cho những người tham dự có điều kiện để tiếp xúc với
những bí ẩn của nguồn khởi mọi sinh vật sống. Lễ hội dân tộc là dịp cho con người
hành hương về với cội rễ, bản thể của mình. Các lễ hội dân tộc là những thứ quý
giá mất mà quá khứ để lại cho chúng ta ngày hôm nay. Và vì thế, các lễ hội dân tộc
lành mạnh không bị mất đi mà ngày càng được phát triển cả về hình thức và nội
dung.
Ngày nay, trong sự phát triển của các ngành khoa học nói chung và khoa học
lý luận nói riêng thì người ta vẫn chưa thể có một định nghĩa chính xác lễ hội là gì
hay thế nào là lễ hội.
Có quan niệm cho rằng: lễ hội là loại hình sinh thái văn hóa tổng hợp hết
sức đa dạng và phong phú, là kiểu sinh hoạt tập thể của cộng đồng dân cư sau thời
gian lao động mệt nhọc, hoặc là một dịp để con người hướng về một sự kiện lịch
sử trọng đại: ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống hoặc là để giải quyết những
nỗi lo âu, những khao khát, những ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết
được[11,67].
1.2. Nội dung lễ hội:
Lễ hội gồm 2 phần: phần nghi lễ và phần hội
a. Phần nghi lễ:
Các lễ hội dù lớn hay nhỏ đều có phần nghi lễ với những nghi thức nghiêm
túc, trọng thể mở đầu ngày hội theo không gian và thời gian .
Phần nghi lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử,
hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại, một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc có ảnh

hưởng lớn đến sự phát triển xã hội. Nghi thức lễ tế nhằm bày tỏ lòng tôn kính với
các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi nhân hòa và sự
phồn vinh hạnh phúc. Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc, tạo một yếu tố văn
hóa thiêng liêng, một giá trị thẩm mỹ đối với toàn thể cộng đồng người đi hội trước
khi chuyển sang phần xem hội.
b. Phần hội:
Phần hội diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý cộng
đồng, văn hóa dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thực tế lịch
sử, xã hội và thiên nhiên. Trong hội thường có những trò vui, những đêm thi nghề,
thi hát, tượng trưng cho sự nhớ ơn và ghi công của người xưa.
Tất cả những gì tiêu biểu cho một vùng đất, một làng xã được mang ra phô
diễn, mang lại niềm vui cho mọi người. Các chàng trai, cô gái đi hội là cái cớ để
được gặp nhau, tìm nhau. Phần hội thường gắn liền với tình yêu, giao duyên nam
nữ nên có phong vị tình.
Hội làng người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống rất
tiêu biểu cho làng xã nông thôn Việt Nam và truyền thống của người Việt Nam. Tại
lễ hội này, người ta thường diễn những sinh hoạt thường niên do nhu cầu tồn tại và
phát triển cộng đồng, mặt khác cũng là để cân bằng sinh thái và tâm lý của người
lao động nông nghiệp.
Lễ hội cũng có rất nhiều quy mô khác nhau, có hội làng, hội vùng và hội cả
nước, nhưng đều phải có một làng làm gốc, là nơi tổ chức. Bởi làng là tổ chức
thuần Việt và là cơ cấu gốc của xã hội cổ truyền. Bản sắc dân tộc ở từng làng quy
tụ thành bản sắc dân tộc chung của Việt Nam.
1.3. Thời gian lễ hội:
Lễ hội xuất hiện vào thời điểm linh thiêng của sự chuyển tiếp giữa hai mùa,
đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ lao động, chuẩn bị bước sang một chu kỳ
mới.
Dân gian ta có câu:
” Tháng giêng ăn Tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”

Nói thế không có nghĩa là hội hè chỉ tập trung vào tháng ba, chủ yếu tập trung vào
mùa xuân; ngoài ra còn có cả hội thu.
1.4. Bản sắc của lễ hội Việt Nam:
Lễ hội Việt Nam mà tiêu biểu là lễ hội vùng đồng bằng sông Hồng, mang
bản sắc của nên văn minh nông nghiệp lúa nước. Lễ hội liên quan mật thiết đến
nghi lễ nông nghiệp, điều này được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
a. Thời gian của lễ hội:
Thời gian của lễ hội theo lịch nông, theo chu kỳ cây lúa, chu kỳ mùa màng.
Người nông dân làm ruộng theo tiết, nghỉ ngơi và thực hành lễ hội theo tiết, tất cả
theo chu kỳ năm, tháng âm lịch (lịch mặt trăng).
b. Nội dung:
Đối tượng thờ cúng của lễ hội trước hết là thờ cúng tổ tiên, mang bản chất
của tâm thức tiểu nông, cha truyền con nối, giữ nếp nhà nông nghiệp, ruộng vườn.
Sau đó là thờ cúng các vị thần Đất, thần Nước, thân Nông…chuyển hóa thần làng
thành thần Hoàng. Đó chính là vị thần bảo hộ của cả làng, bảo hộ sự an lạc của dân
định cư làm ruộng nước.
Những nội dung của phần lễ hội không chỉ mang tính chất đua tài, thể thao,
văn nghệ, tiếp xúc nam nữ…mà còn mang tính chất phồn thực.
Ví dụ như trò bơi chải hội Đàm – Hà Tây, không phải chỉ là cuộc đua thuyền
để thi thố tài năng, sức khoẻ trên sông nước mà xuất xứ của nó từ lâu được các nhà
dân tộc học xác định là lễ hội cầu mưa.
Trò chơi kéo co hay đánh đu không đơn giản chỉ là cuộc thi sức khỏe mà còn
là một nghi thức thể hiện sự giằng co giữa hai mùa mưa nắng (kéo co) hay biểu
hiện sự chu chuyển của 4 mùa trong một nhịp điệu tuần hoàn liên tục.
2. HOẠT ĐỘNG CỦA DU LỊCH VÀ LỄ HỘI:
Mỗi chuyến đi của con người có thể có mục đích thuần tuý du lịch, tức là chỉ
nhằm nghỉ ngơi, giải trí, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Ngoài
các chuyến đi như vậy, có nhiều cuộc hành trình vì các lý do khác nhau như học
tập, hội nghị, tôn giáo- lễ hội… Một trong những chức năng của du lịch là giao lưu
văn hóa giữa các cộng đồng. Khi đi du lịch để tham gia vào lễ hội là du khách

muốn được sống trong không khí lễ hộicủa dân cư địa phương. Ngày nay, lễ hội là
một yếu tố rất hấp dẫn du khách. Chính vì thế, việc khôi phục các lễ hội truyền
thống, việc tổ chức các lễ hội mới không chỉ là mối quan tâm của các cơ quan,
đoàn thể quần chúng xã hội mà còn là một hướng quan trọng của ngành du lịch. Du
khách muốn được hòa mình vào không khí của các ngày biểu dương lực lượng,
biểu dương tình đoàn kết của cộng đồng khi tham gia vào lễ hội. Du khách tìm
thấy ở lễ hội bản thân mình, quên đi những khó chịu của cuộc sống đời thường.
Có thể nói, lễ hội dược coi là nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn. Nếu
như tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo và hiếm hoi
của nó thì lễ hội thu hút khách bởi tính phong phú, đa dạng, tính truyền thống đầy
chất nhân văn. Ở bất kỳ nơi nào, khi lễ hội được diễn ra thì cũng đồng thời thu hút
được phần lớn khách du lịch đến và tham gia. Quy mô và thời gian lễ hội tỷ lệ
thuận với số lượng du khách. Khi du khách đến lễ hội thì đương nhiên họ phải có
những yêu cầu về dịch vụ như ăn uống, ở và mua sắm… Tuy rằng khách du lịch đi
vì mục đích lễ hội ít quan tâm đến sự thiếu thốn, thiếu hụt trong dịch vụ hơn những
du khách đi vì mục đích khác.
Một số địa phương khi tài nguyên thiên nhiên bị hạn chế thì chính những lễ
hội lại “cứu cánh” cho sự phát triển của ngành du lịch. Như lễ hội chùa Hương ở
huyện Mỹ Đức – tỉnh Hà Tây là một ví dụ. Phần lớn thu nhập của ngành du lịch nói
chung và của người dân địa phương kinh doanh các loại dịch vụ như nhà hàng,
khách sạn, bán đồ lưu niệm, chèo thuyền…đều tập trung vào 3 tháng lễ hội.
Hay ở trên thế giới, những cuộc hành hương tập thể về vùng đất thánh
Mecca ở Ả Rập hoặc toà thành Vatican ở Rôma đã không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển của những hoạt động du lịch mà còn mang lại thu nhập cho đất nước của
họ. Sự phát triển của du lịch nói chung gắn liền với sự ra đời của các dịch vụ lưu
trú, lữ hành, ăn uống… Trong hoạt động lữ hành, không thể không nói đến dịch vụ
tour và như vậy các tour du lịch lễ hội cũng đã xuất hiện và phát triển để phục vụ
khách hành hương.
3. TOUR DU LỊCH LỄ HỘI:
3.1. Tour du lịch

3.1.1. Khái niệm:
Tour du lịch bắt đầu hình thành từ thế kỷ IXX khi Thomas Cook lần đầu tiên
tổ chức sáng lập tour (tháng 7/1841). Trước đó, con người đi theo nhóm, đoàn
những chưa hình thành tour. Trải qua thời gian, từ sự phát triển có hiệu quả một hệ
thống đường bộ của đế chế La Mã đến các cuộc thập tự chinh của thời trung cổ hay
các cuộc hành hương tôn giáo; lữ hành vẫn chưa được phát triển và dù theo bất kỳ
hình thức nào thì nó vẫn là một hoạt động mạo hiểm và đầy thách thức.
Sau chiến tranh thế giới lần II, đặc biệt là những năm 50 trở lại đây, hoạt
động du lịch trên thế giới trở nên nhộn nhịp. Kinh doanh tour du lịch đã trở thành
một ngành kinh doanh mạnh và rộng khắp.
Bảng 1: Lượng khách và thu nhập du lịch quốc tế trên thế giới.
Năm
1950 1960 1970 1980 1990 2000
Số lượng khách DL quốc tế
(triệu người) 25,3 70 166 286 454,8 698
Doanh thu
( tỷ đô la)
2,1 7 18 105 255 476
(Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới)
Khi nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, con người đã đạt được những thành
tựu vĩ đại về mọi lĩnh vực, nên có thể tin tưởng một cách chắc chắn rằng nhu cầu
vui chơi giải trí, du lịch sẽ phổ biến ở mọi nơi trên thế giới. Nếu như ngày nay, đại
đa số các chuyến du lịch mới chỉ là ” chiêm ngưỡng”, “ngắm nhìn” thì trong tương
lai xu hướng nghiên cứu sâu về đối tượng tham quan sẽ là một trào lưu thịnh hành.
Có rất nhiều các khái niệm khác nhau về tour du lịch nhưng có thể tóm gọn
như sau:
Tour ( chương trình du lịch) gồm các dịch vụ trong một lịch trình của khách du lịch
đã được lên kế hoạch, đặt trước và được khách thanh toán đầy đủ.
3.1.2. Các đặc tính của tour:
– Tour là một sản phẩm vô hình: người ta không thể nhìn thấy, chạm vào hay

miêu tả nó khi chưa tham gia vào. Thay vào đó, người thiết kế tour sẽ xây dựng
một tập brochure, hay ngày nay nhờ có công nghệ thông tin hữu hiệu để giới thiệy
sản phẩm của mình bằng lời và thông qua hình ảnh. Khi mua một sản phẩm tour
không giống như mua một vận dụng khác vì cái còn lại sau cùng của một chuyến
tour chỉ là một ký ức.
– Chất lượng của tour phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: như tiêu chuẩn
phóng khách sạn, hiệu quả của việc vận chuyển, thái độ và trình độ của người
hướng dẫn… Một chuyến tour chọn gói có mối quan hệ không thể tách rời với các
sản phẩm của các ngành dịch vụ có liên quan.
– Tour là một sản phẩm dễ hỏng: nếu nó được sử dụng tại một thời điểm nhất
định thì nó sẽ vĩnh viễn mất đi.
– Tour là phương tiện cơ bản để nối khách du lịch với một điểm du lịch đã
được lựa chọn.
– Tour là một sản phẩm thay đổi linh hoạt, tuỳ thuộc vào ý thích của khách
hàng. Điều đó có nghĩa rằng khách hàng không phải mua nó theo cách mà họ mua
thức ăn hoặc nhiên liệu. Họ hoàn toàn có thể lựa chọn trước một chuyến đi với giá
rẻ hơn. Khi tài chính thắt chặt, họ có thể lựa chọn tuỳ ý sẽ tiêu tiền như thế nào
cho việc đi nghỉ.
3.2. Các loại hình tour:
* Phân loại theo đặc tính, có 3 loại hình tour:
a. Local tour (chương trình du lịch đơn giản):
Là một chương trình được cung cấp cho khách du lịch, thường bao gồm:
dịch vụ vận chuyển, vé vào cửa và thuyết minh- hướng dẫn tại điểm tham quan.
Thường kéo dài không hơn một ngày, bị giới hạn về mặt địa lý, thường là tại một
điểm du lịch, một thành phố hoặc một vùng lân cận.
Ví dụ như một chuyến City tour tham quan thành phố, hay một chuyến tour mọt
ngày đi thăm quan các làng nghề thủ công như gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn
Phúc…
b. Package tour ( tour trọn gói):
Là các dịch vụ được cung cấp trong chương trình của khách du lịch; thường

bao gồm: việc vận chuyển, lưu trú (ăn, ở), đi lại và tham quan ở một hay nhiều
nước, không giới hạn đối với khu vực địa lý hay các thành phố và có khoảng thời
gian nhiều hơn 24 giờ.
Ví dụ: một chuyến tour đi thăm quan Hạ Long- Cát Bà 3 ngày – 2 đêm; một
chuyến tour đi Hà Nội- Huế- Đà Nẵng hoặc một tour đi Malasia- Singapo…
c. Open tour (chương trình du lịch mở):
Là một loại hình du lịch mới xuất hiện vao những năm 90. Tuy nhiên, Open
tour ngày càng chứng tỏ được ưu thế vì sự linh động của nó và ngày càng có sức
hút- đặc biệt với giới trẻ và khách du lịch balô. Cho đến hiện nay thực tế chưa có
một tài liệu nào đưa ra mọt khái niệm hay một định nghĩa chính xác. Song có thể
hiểu về open tour như sau:
“Open tour là sự kết hợp vận chuyển khách du lịch đến các điểm du lịch đã
định trước giữa các thành viên trong hiệp hội vận chuyển. Trong đó, khách du lịch
có thể lựa chọn các dịch vụ ăn, nghỉ, thăm quan hay vận chuyển tùy theo ý muốn
với một giá nhất định được ghi trên vé.”[13,69]
Ví dụ khi khách tham gia vào Open tour từ Hà Nội đến thành phố Hồ Chí
Minh tới Huế (Hội An); khách dừng lại bao nhiêu ngày tùy thích. Khi muốn đi tiếp,
khách báo với trạm dừng nơi ấy trước một ngày. Sáng hôm sau đúng giờ hẹn ghi
trên vé, sẽ có xe đưa khách đi. Những cuộc hành trình và những điểm dừng từ Bắc
vào Nam sẽ cho du khách cái nhìn tương đối toàn diện về đất nước và con người
Việt Nam.
* Phân loại theo loại hình du lịch có các tour:
a. Du lịch chữa bệnh:
Là tour du lịch để điều trị căn bệnh nào đó về thể xác hay tinh thần. Mục
đích chính là du lịch vì sức khoẻ. Loại tour du lịch này thường gắn liền với việc
chữa bệnh và nghỉ ngơi tại các trung tâm chữa bệnh (Ví dụ như nguồn suối nước
khoáng), các trung tâm được xây dựng bên các nguồn nước khoáng có giá trị giữa
khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và khí hậu thích hợp.
b. Du lịch nghỉ ngơi (giải trí):
Nảy sinh do nhu cầu cần nghỉ ngơi giải trí để phục hồi thể lực và tinh thần

cho con người. Đây là loại tour du lịch có tác dụng giải trí làm cho cuộc sống thêm
đa dạng và giúp con người thoát ra khỏi công việc hàng ngày.
c. Du lịch thể thao:
Xuất hiện do lòng say mê thể thao. Đây là tour du lịch gắn liền với sở thích
của khách về một loại hình thể thao nào đó. Du lịch thể thao có thể chia làm hai
loại: du lịch thể thao chủ động và du lịch thể thao bị động. Du lịch thể thao chủ
động bao gồm các chuyến du lịch và lưu trú để khách tham gia trực tiếp vào các
hoạt động thể thao ví dụ như du lịch leo núi (phát triển ở Châu Âu và Châu Mỹ),
du lịch săn bắn (phát triển ở Tiệp Khắc, Ba Lan)… Và du lịch tham gia chơi các
loại thể thao như bóng đá, bóng chuyền, trượt tuyết… Du lịch thể thao bị động bao
gồm những cuộc hành trình du lịch để xem các cuộc thi đấu thể thao, các thế vận
hội.
d. Du lịch văn hoá:
Mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, tour du lịch này thoả mãn
lòng ham hiểu biết, và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến đi du lịch
đến những nơi xa lạ để tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử kiến trúc, kinh tế, chế độ xã
hội, cuộc sống, phong tục tập quán của đất nước du lịch. Tour du lịch này rất phát
triển ở Ai Cập, Hy Lạp, Italia…
hưởng lớn đến sự tăng trưởng xã hội. Nghi thức lễ tế nhằm mục đích bày tỏ lòng tôn kính vớicác bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi nhân hòa và sựphồn vinh hạnh phúc. Nghi lễ tạo thành nền móng vững chãi, tạo một yếu tố vănhóa thiêng liêng, một giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật so với toàn thể hội đồng người đi hội trướckhi chuyển sang phần xem hội. b. Phần hội : Phần hội diễn ra những hoạt động giải trí hình tượng nổi bật của tâm ý cộngđồng, văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, tiềm ẩn những ý niệm của dân tộc bản địa đó với trong thực tiễn lịchsử, xã hội và vạn vật thiên nhiên. Trong hội thường có những trò vui, những đêm thi nghề, thi hát, tượng trưng cho sự nhớ ơn và ghi công của người xưa. Tất cả những gì tiêu biểu vượt trội cho một vùng đất, một làng xã được mang ra phôdiễn, mang lại niềm vui cho mọi người. Các chàng trai, cô gái đi hội là cái cớ đểđược gặp nhau, tìm nhau. Phần hội thường gắn liền với tình yêu, giao duyên namnữ nên có phong vị tình. Hội làng người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống cuội nguồn rấttiêu biểu cho làng xã nông thôn Nước Ta và truyền thống cuội nguồn của người Nước Ta. Tạilễ hội này, người ta thường diễn những hoạt động và sinh hoạt thường niên do nhu yếu sống sót vàphát triển hội đồng, mặt khác cũng là để cân đối sinh thái xanh và tâm ý của ngườilao động nông nghiệp. Lễ hội cũng có rất nhiều quy mô khác nhau, có hội làng, hội vùng và hội cảnước, nhưng đều phải có một làng làm gốc, là nơi tổ chức triển khai. Bởi làng là tổ chứcthuần Việt và là cơ cấu tổ chức gốc của xã hội truyền thống. Bản sắc dân tộc bản địa ở từng làng quytụ thành truyền thống dân tộc bản địa chung của Nước Ta. 1.3. Thời gian lễ hội : Lễ hội Open vào thời gian rất linh của sự chuyển tiếp giữa hai mùa, lưu lại sự kết thúc của một chu kỳ luân hồi lao động, sẵn sàng chuẩn bị bước sang một chu kỳmới. Dân gian ta có câu : ” Tháng giêng ăn Tết ở nhàTháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè ” Nói thế không có nghĩa là hội hè chỉ tập trung chuyên sâu vào tháng ba, đa phần tập trung chuyên sâu vàomùa xuân ; ngoài những còn có cả hội thu. 1.4. Bản sắc của lễ hội Nước Ta : Lễ hội Nước Ta mà tiêu biểu vượt trội là lễ hội vùng đồng bằng sông Hồng, mangbản sắc của nên văn minh nông nghiệp lúa nước. Lễ hội tương quan mật thiết đếnnghi lễ nông nghiệp, điều này được biểu lộ ở 1 số ít góc nhìn sau : a. Thời gian của lễ hội : Thời gian của lễ hội theo lịch nông, theo chu kỳ luân hồi cây lúa, chu kỳ luân hồi mùa màng. Người nông dân làm ruộng theo tiết, nghỉ ngơi và thực hành thực tế lễ hội theo tiết, tất cảtheo chu kỳ luân hồi năm, tháng âm lịch ( lịch mặt trăng ). b. Nội dung : Đối tượng thờ cúng của lễ hội trước hết là thờ cúng tổ tiên, mang bản chấtcủa tâm thức tiểu nông, cha truyền con nối, giữ nếp nhà nông nghiệp, ruộng vườn. Sau đó là thờ cúng những vị thần Đất, thần Nước, thân Nông … chuyển hóa thần làngthành thần Hoàng. Đó chính là vị thần bảo lãnh của cả làng, bảo lãnh sự an nhàn của dânđịnh cư làm ruộng nước. Những nội dung của phần lễ hội không riêng gì mang đặc thù đua tài, thể thao, văn nghệ, tiếp xúc nam nữ … mà còn mang đặc thù phồn thực. Ví dụ như trò bơi chải hội Đàm – Hà Tây, không phải chỉ là cuộc đua thuyềnđể thi thố kĩ năng, sức khoẻ trên sông nước mà nguồn gốc của nó từ lâu được những nhàdân tộc học xác lập là lễ hội cầu mưa. Trò chơi kéo co hay đánh đu không đơn thuần chỉ là cuộc thi sức khỏe thể chất mà cònlà một nghi thức bộc lộ sự giằng co giữa hai mùa mưa nắng ( kéo co ) hay biểuhiện sự chu chuyển của 4 mùa trong một nhịp điệu tuần hoàn liên tục. 2. HOẠT ĐỘNG CỦA DU LỊCH VÀ LỄ HỘI : Mỗi chuyến đi của con người hoàn toàn có thể có mục tiêu thuần tuý du lịch, tức là chỉnhằm nghỉ ngơi, vui chơi, nâng cao nhận thức tại chỗ về quốc tế xung quanh. Ngoàicác chuyến đi như vậy, có nhiều cuộc hành trình dài vì những nguyên do khác nhau như họctập, hội nghị, tôn giáo – lễ hội … Một trong những công dụng của du lịch là giao lưuvăn hóa giữa những hội đồng. Khi đi du lịch để tham gia vào lễ hội là du kháchmuốn được sống trong không khí lễ hộicủa dân cư địa phương. Ngày nay, lễ hội làmột yếu tố rất mê hoặc hành khách. Chính do đó, việc Phục hồi những lễ hội truyềnthống, việc tổ chức triển khai những lễ hội mới không chỉ là mối chăm sóc của những cơ quan, đoàn thể quần chúng xã hội mà còn là một hướng quan trọng của ngành du lịch. Dukhách muốn được hòa mình vào không khí của những ngày biểu dương lực lượng, biểu dương tình đoàn kết của hội đồng khi tham gia vào lễ hội. Du khách tìmthấy ở lễ hội bản thân mình, quên đi những không dễ chịu của đời sống đời thường. Có thể nói, lễ hội dược coi là nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt quan trọng mê hoặc. Nếunhư tài nguyên vạn vật thiên nhiên mê hoặc hành khách bởi sự hoang sơ, độc lạ và hiếm hoicủa nó thì lễ hội lôi cuốn khách bởi tính nhiều mẫu mã, phong phú, tính truyền thống lịch sử đầychất nhân văn. Ở bất kể nơi nào, khi lễ hội được diễn ra thì cũng đồng thời thu hútđược phần nhiều khách du lịch đến và tham gia. Quy mô và thời hạn lễ hội tỷ lệthuận với số lượng hành khách. Khi hành khách đến lễ hội thì đương nhiên họ phải cónhững nhu yếu về dịch vụ như ẩm thực ăn uống, ở và shopping … Tuy rằng khách du lịch đivì mục tiêu lễ hội ít chăm sóc đến sự thiếu thốn, thiếu vắng trong dịch vụ hơn nhữngdu khách đi vì mục tiêu khác. Một số địa phương khi tài nguyên vạn vật thiên nhiên bị hạn chế thì chính những lễhội lại ” cứu cánh ” cho sự tăng trưởng của ngành du lịch. Như lễ hội chùa Hương ởhuyện Mỹ Đức – tỉnh Hà Tây là một ví dụ. Phần lớn thu nhập của ngành du lịch nóichung và của người dân địa phương kinh doanh thương mại những loại dịch vụ như nhà hàng quán ăn, khách sạn, bán đồ lưu niệm, chèo thuyền … đều tập trung chuyên sâu vào 3 tháng lễ hội. Hay ở trên quốc tế, những cuộc hành hương tập thể về vùng đất thánhMecca ở Ả Rập hoặc toà thành Vatican ở Rôma đã không chỉ thôi thúc can đảm và mạnh mẽ sựphát triển của những hoạt động giải trí du lịch mà còn mang lại thu nhập cho quốc gia củahọ. Sự tăng trưởng của du lịch nói chung gắn liền với sự sinh ra của những dịch vụ lưutrú, lữ hành, nhà hàng siêu thị … Trong hoạt động giải trí lữ hành, không hề không nói đến dịch vụtour và như vậy những tour du lịch lễ hội cũng đã Open và tăng trưởng để phục vụkhách hành hương. 3. TOUR DU LỊCH LỄ HỘI : 3.1. Tour du lịch3. 1.1. Khái niệm : Tour du lịch mở màn hình thành từ thế kỷ IXX khi Thomas Cook lần đầu tiêntổ chức sáng lập tour ( tháng 7/1841 ). Trước đó, con người đi theo nhóm, đoànnhững chưa hình thành tour. Trải qua thời hạn, từ sự tăng trưởng có hiệu suất cao một hệthống đường đi bộ của đế chế La Mã đến những cuộc thập tự chinh của thời trung cổ haycác cuộc hành hương tôn giáo ; lữ hành vẫn chưa được tăng trưởng và dù theo bất kỳhình thức nào thì nó vẫn là một hoạt động giải trí mạo hiểm và đầy thử thách. Sau cuộc chiến tranh quốc tế lần II, đặc biệt quan trọng là những năm 50 trở lại đây, hoạtđộng du lịch trên quốc tế trở nên sinh động. Kinh doanh tour du lịch đã trở thànhmột ngành kinh doanh thương mại mạnh và rộng khắp. Bảng 1 : Lượng khách và thu nhập du lịch quốc tế trên quốc tế. Năm1950 1960 1970 1980 1990 2000S ố lượng khách DL quốc tế ( triệu người ) 25,3 70 166 286 454,8 698D oanh thu ( tỷ đô la ) 2,1 7 18 105 255 476 ( Nguồn : Tổ chức Du lịch Thế giới ) Khi trái đất đã bước sang thế kỷ XXI, con người đã đạt được những thànhtựu vĩ đại về mọi nghành nghề dịch vụ, nên hoàn toàn có thể tin yêu một cách chắc như đinh rằng nhu cầuvui chơi vui chơi, du lịch sẽ thông dụng ở mọi nơi trên quốc tế. Nếu như thời nay, đạiđa số những chuyến du lịch mới chỉ là ” chiêm ngưỡng và thưởng thức “, ” ngắm nhìn ” thì trong tươnglai xu thế nghiên cứu và điều tra sâu về đối tượng người dùng du lịch thăm quan sẽ là một trào lưu thông dụng. Có rất nhiều những khái niệm khác nhau về tour du lịch nhưng hoàn toàn có thể tóm gọnnhư sau : Tour ( chương trình du lịch ) gồm những dịch vụ trong một lịch trình của khách du lịchđã được lên kế hoạch, đặt trước và được khách giao dịch thanh toán không thiếu. 3.1.2. Các đặc tính của tour : – Tour là một mẫu sản phẩm vô hình dung : người ta không hề nhìn thấy, chạm vào haymiêu tả nó khi chưa tham gia vào. Thay vào đó, người phong cách thiết kế tour sẽ xây dựngmột tập brochure, hay thời nay nhờ có công nghệ thông tin hữu hiệu để giới thiệysản phẩm của mình bằng lời và trải qua hình ảnh. Khi mua một mẫu sản phẩm tourkhông giống như mua một vận dụng khác vì cái còn lại sau cuối của một chuyếntour chỉ là một ký ức. – Chất lượng của tour nhờ vào vào nhiều yếu tố khác nhau : như tiêu chuẩnphóng khách sạn, hiệu suất cao của việc luân chuyển, thái độ và trình độ của ngườihướng dẫn … Một chuyến tour chọn gói có mối quan hệ không hề tách rời với cácsản phẩm của những ngành dịch vụ có tương quan. – Tour là một loại sản phẩm dễ hỏng : nếu nó được sử dụng tại một thời gian nhấtđịnh thì nó sẽ vĩnh viễn mất đi. – Tour là phương tiện đi lại cơ bản để nối khách du lịch với một điểm du lịch đãđược lựa chọn. – Tour là một loại sản phẩm đổi khác linh động, tuỳ thuộc vào ý thích của kháchhàng. Điều đó có nghĩa rằng người mua không phải mua nó theo cách mà họ muathức ăn hoặc nguyên vật liệu. Họ trọn vẹn hoàn toàn có thể lựa chọn trước một chuyến đi với giárẻ hơn. Khi kinh tế tài chính thắt chặt, họ hoàn toàn có thể lựa chọn tuỳ ý sẽ tiêu tiền như vậy nàocho việc đi nghỉ. 3.2. Các mô hình tour : * Phân loại theo đặc tính, có 3 mô hình tour : a. Local tour ( chương trình du lịch đơn thuần ) : Là một chương trình được phân phối cho khách du lịch, thường gồm có : dịch vụ luân chuyển, vé vào cửa và thuyết minh – hướng dẫn tại điểm du lịch thăm quan. Thường lê dài không hơn một ngày, bị số lượng giới hạn về mặt địa lý, thường là tại mộtđiểm du lịch, một thành phố hoặc một vùng lân cận. Ví dụ như một chuyến City tour du lịch thăm quan thành phố, hay một chuyến tour mọtngày đi thăm quan những làng nghề thủ công bằng tay như gốm Bát Tràng, làng lụa VạnPhúc … b. Package tour ( tour trọn gói ) : Là những dịch vụ được phân phối trong chương trình của khách du lịch ; thườngbao gồm : việc luân chuyển, lưu trú ( ăn, ở ), đi lại và thăm quan ở một hay nhiềunước, không số lượng giới hạn so với khu vực địa lý hay những thành phố và có khoảng chừng thờigian nhiều hơn 24 giờ. Ví dụ : một chuyến tour đi thăm quan Hạ Long – Cát Bà 3 ngày – 2 đêm ; mộtchuyến tour đi TP. Hà Nội – Huế – Thành Phố Đà Nẵng hoặc một tour đi Malasia – Singapo … c. Open tour ( chương trình du lịch mở ) : Là một mô hình du lịch mới Open vao những năm 90. Tuy nhiên, Opentour ngày càng chứng tỏ được lợi thế vì sự linh động của nó và ngày càng có sứchút – đặc biệt quan trọng với giới trẻ và khách du lịch balô. Cho đến lúc bấy giờ thực tiễn chưa cómột tài liệu nào đưa ra mọt khái niệm hay một định nghĩa đúng mực. Song có thểhiểu về open tour như sau : ” Open tour là sự phối hợp luân chuyển khách du lịch đến những điểm du lịch đãđịnh trước giữa những thành viên trong hiệp hội luân chuyển. Trong đó, khách du lịchcó thể lựa chọn những dịch vụ ăn, nghỉ, thăm quan hay luân chuyển tùy theo ý muốnvới một giá nhất định được ghi trên vé. ” [ 13,69 ] Ví dụ khi khách tham gia vào Open tour từ TP. Hà Nội đến thành phố Hồ ChíMinh tới Huế ( Hội An ) ; khách dừng lại bao nhiêu ngày tùy thích. Khi muốn đi tiếp, khách báo với trạm dừng nơi ấy trước một ngày. Sáng hôm sau đúng giờ hẹn ghitrên vé, sẽ có xe đưa khách đi. Những cuộc hành trình dài và những điểm dừng từ Bắcvào Nam sẽ cho hành khách cái nhìn tương đối tổng lực về quốc gia và con ngườiViệt Nam. * Phân loại theo mô hình du lịch có những tour : a. Du lịch chữa bệnh : Là tour du lịch để điều trị căn bệnh nào đó về thể xác hay niềm tin. Mụcđích chính là du lịch vì sức khoẻ. Loại tour du lịch này thường gắn liền với việcchữa bệnh và nghỉ ngơi tại những TT chữa bệnh ( Ví dụ như nguồn suối nướckhoáng ), những TT được thiết kế xây dựng bên những nguồn nước khoáng có giá trị giữakhung cảnh vạn vật thiên nhiên tươi đẹp và khí hậu thích hợp. b. Du lịch nghỉ ngơi ( vui chơi ) : Nảy sinh do nhu yếu cần nghỉ ngơi vui chơi để phục sinh thể lực và tinh thầncho con người. Đây là loại tour du lịch có công dụng vui chơi làm cho đời sống thêmđa dạng và giúp con người thoát ra khỏi việc làm hàng ngày. c. Du lịch thể thao : Xuất hiện do lòng mê hồn thể thao. Đây là tour du lịch gắn liền với sở thíchcủa khách về một mô hình thể thao nào đó. Du lịch thể thao hoàn toàn có thể chia làm hailoại : du lịch thể thao dữ thế chủ động và du lịch thể thao bị động. Du lịch thể thao chủđộng gồm có những chuyến du lịch và lưu trú để khách tham gia trực tiếp vào cáchoạt động thể thao ví dụ như du lịch leo núi ( tăng trưởng ở Châu Âu và Châu Mỹ ), du lịch săn bắn ( tăng trưởng ở Tiệp Khắc, Ba Lan ) … Và du lịch tham gia chơi cácloại thể thao như bóng đá, bóng chuyền, trượt tuyết … Du lịch thể thao bị động baogồm những cuộc hành trình dài du lịch để xem những cuộc tranh tài thể thao, những thế vậnhội. d. Du lịch văn hoá : Mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá thể, tour du lịch này thoả mãnlòng ham hiểu biết, và ham thích nâng cao văn hoá trải qua những chuyến đi du lịchđến những nơi lạ lẫm để tìm hiểu và khám phá và nghiên cứu và điều tra lịch sử vẻ vang kiến trúc, kinh tế tài chính, chính sách xãhội, đời sống, phong tục tập quán của quốc gia du lịch. Tour du lịch này rất pháttriển ở Ai Cập, Hy Lạp, Italia …

Source: https://evbn.org
Category: Lễ Hội