Nước công nghiệp mới – Wikipedia tiếng Việt

Đừng nhầm lẫn với Nước công nghiệp

Nước công nghiệp mới (Newly Industrialized Country – NIC) là những quốc gia đã gần hoàn thành quá trình công nghiệp hóa. Trên thế giới hiện nay, nhóm này đứng trên các nước đang phát triển nhưng xếp sau các nước phát triển[1].

Đây là các vương quốc chưa đạt được trình độ tân tiến kinh tế tài chính xã hội cao như các nước thuộc quốc tế thứ nhất nhưng có sự tăng trưởng tiêu biểu vượt trội so với các nước đang tăng trưởng thuộc quốc tế thứ ba. Một đặc thù của các nước công nghiệp mới ( NIC ) là có vận tốc tăng trưởng cao ( thường là hướng về xuất khẩu ). Quá trình công nghiệp hóa nhanh gọn là một chỉ số quan trọng để trở thành một nước công nghiệp mới. Ở nhiều quốc gia thuộc NIC, đảo lộn xã hội hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt quan trọng là ở khu vực nông thôn như dân cư nông nghiệp di cư ra các thành thị kiếm việc làm, nơi sự tăng trưởng của nghành nghề dịch vụ sản xuất cần rất nhiều lao động .

Các NIC thường mang đặc điểm chung là:

  • Quyền dân sự và tự do xã hội được cải thiện
  • Kinh tế chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực chế tạo
  • Nền kinh tế thị trường ngày càng mở, cho phép tự do thương mại với các nước trên toàn thế giới
  • Các tập đoàn quốc gia lớn bành trướng hoạt động ra toàn cầu
  • Hấp thu luồng đầu tư tư bản dồi dào từ nước ngoài
  • Lãnh đạo chính trị mang lại ảnh hưởng lớn đến sự thúc đẩy kinh tế.

Các nước công nghiệp mới thường nhận được tương hỗ của các tổ chức triển khai quốc tế như WTO, v.v. Tuy vậy, bởi những quyền lợi thu được từ quy trình toàn thế giới hóa, nhiều người theo chủ nghĩa bảo lãnh ( và hoàn toàn có thể cả những người ủng hộ thương mại bình đẳng ) phản đối sản phẩm & hàng hóa nhập khẩu từ các nước công nghiệp mới, đặc biệt quan trọng là từ Trung Quốc .

Nguồn gốc thuật ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

Từ ngữ các nước công nghiệp mới bắt đầu được sử dụng ở thập niên 1970 khi “Bốn con Hổ châu Á” là Hồng Kông (khi đó còn là thuộc địa của Anh), Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan nổi lên với sự tăng trưởng ngoạn mục từ thập niên 1960. Thuật ngữ “các nước công nghiệp mới” được dùng để chỉ các quốc gia trên trong giai đoạn đó. Ngày nay, các nước quốc gia và vùng lãnh thổ này đã vượt qua giai đoạn công nghiệp hóa, và “NIC” được dùng chỉ các nước tiếp bước con đường thành công của họ.

Bốn con hổ châu Á giờ đây đã đạt trình độ tương đương các nước phát triển với tiến trình cởi mở chính trị, GDP trên đầu người cao, và chính sách kinh tế mạnh mẽ, hướng về xuất khẩu. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức hơn 90% chỉ số trung bình của Liên minh châu Âu, đặc biệt, riêng Hàn Quốc còn là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Câu lạc bộ Paris và Nhóm các nền kinh tế lớn (G20). Đôi khi “Bốn con hổ châu Á” được gọi là các nước công nghiệp mới thế hệ thứ nhất để phân biệt với các nước công nghiệp hóa đi sau.

Hổ mới châu Á (Á châu tiểu hổ), tiếng Anh: Tiger Cub Economies) là một thuật ngữ được đặt ra vào thập niên 1990, dùng để chỉ sự kỳ vọng vào nền kinh tế của các nước đang phát triển ở Đông Á là Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines[2] sau đó bổ sung thêm Việt Nam[3] Các nền kinh tế đang phát triển này được kỳ vọng sẽ tiếp nối thành công của “Bốn con hổ châu Á”.

Các nước công nghiệp mới lúc bấy giờ[sửa|sửa mã nguồn]

Bảng sau liệt kê list các vương quốc, vùng chủ quyền lãnh thổ được coi là các nước công nghiệp mới : [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ]

Trung Quốc và Ấn Độ là hai trường hợp đặc biệt: với quy mô dân số khổng lồ của hai nước (khoảng 1,4 tỷ người mỗi nước), dù thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc mới chỉ ở mức trung bình cao, quy mô nền kinh tế của họ vẫn sẽ vượt qua Hoa Kỳ. Tương tự là Ấn Độ, dù thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ mới chỉ ở mức trung bình thấp, quy mô nền kinh tế của họ vẫn có thể vượt qua Nhật Bản.

Bởi tầm quan trọng trong nền kinh tế tài chính toàn thế giới, hàng năm, 5 vương quốc gồm Ấn Độ, Brasil, Nước Hàn, México và Trung Quốc gặp mặt nhóm G8 để tranh luận các vấn đề tài chính, nhóm này được biết đến dưới cái tên G8 + 5 .Các nước công nghiệp mới thường thu được quyền lợi trong thương mại quốc tế nhờ ngân sách lao động cạnh tranh đối đầu đưa đến giá mẫu sản phẩm thấp. Kết quả là chi phí sản xuất sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ ở các nước này rẻ hơn rất nhiều ở các nước tăng trưởng, gây áp lực đè nén giảm tiền lương ở các nước này, nơi mà ngân sách hoạt động và sinh hoạt cao hơn và công đoàn cũng như các tổ chức triển khai khác của người lao động có lời nói chính trị .Ưu thế cạnh tranh đối đầu tương đối này thường bị chỉ trích bởi những người cổ vũ cho thương mại bình đẳng .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh